Đọc tiếng anh, tăng nhanh vocabs.

BOOKS

articles/ news
DỊCH SÁCH: A WILD SHEEP CHASE

Wednesday Afternoon Picnic
It was a short one-paragraph item in the morning edition. A friend rang me up and read it to me. Nothing special. Something a rookie reporter fresh out of college might’ve written for practice.
Một người bạn gọi cho tôi và đọc tôi nghe một mẫu tin ngắn trong bản tin buổi sáng. Bài viết cũng thường. Nghe như được viết bởi một nhà báo “tân binh” vừa lấy được bằng đại học vậy.
The date, a street corner, a person driving a truck, a pedestrian, a casualty, an investigation of possible negligence.
Thời gian, một góc đường, một tài xế xe tải, một người đi bộ, một thương vong, một cuộc điều tra mở ra vì sự phân tâm.
Sounded like one of those poems on the inner flap of a magazine.
Vần điệu như mấy bài thơ hay được in ở mặt trong của 1 cuốn tạp chí.
“Where’s the funeral?” I asked. “You got me,” he said. “Did she even have family?
“Tang lễ tổ chức ở đâu thế?” Tôi hỏi.
“Sao tớ biết”, anh ấy bảo. “Tớ còn không biết liệu cô ấy có người thân hay không nữa?”
Of course she had a family.
Tất nhiên là em ấy có gia đình.
I called the police department to track down her family’s address and telephone number, after which I gave them a call to get details of the funeral.
Tôi nhấc máy gọi cho sở cảnh sát để tìm địa chỉ nhà và số điện thoại của em ấy, sau đó tôi gọi hỏi để xin thông tin chi tiết tang lễ.
Her family lived in an old quarter of Tokyo. I got out my map and marked the block in red. There were subway and train and bus lines everywhere, overlapping like some misshapen spider-web, the whole area a maze of narrow streets and drainage canals.
Gia đình em sống ở 1 khu phố cổ ở Tokyo. Tôi lấy bản đồ và đánh dấu đỏ khu nhà em, nơi chằng chịt với các tuyến tàu điện ngầm, đường sắt và xe buýt, chồng chéo lên nhau chẳng khác gì một cái mạng nhện méo mó, cả khu vực nom như 1 ma trận của các con đường hẹp và kênh tiêu nước.
The day of the funeral, I took a streetcar from Waseda. I got off near the end of the line. The map proved about as helpful as a globe would have been. I ended up buying pack after pack of cigarettes, asking directions each time.
Vào ngày tang lễ được cử hành, tôi bắt tàu điện đi từ Waseda, và xuống trạm kề cuối. Cái bản đồ trên tay tôi chả giúp được cái quái gì. Cuối cùng tôi mua hết gói thuốc này đến gói thuốc khác để nhờ chủ tiệm chỉ đường.
It was a wood-frame house with a brown board fence around it. A small yard, with an abandoned ceramic brazier filled with standing rainwater. The ground was dark and damp.
Cuối cùng tôi cũng đến được nhà em , một căn nhà khung gỗ, vây quanh bởi hàng rào nâu. Một chiếc sân nhỏ, với 1 chiếc lò than gốm ngập đầy nước mưa. Sân nhà tối, ẩm ương.
“She’d left home when she was sixteen. Which may have been the reason why the funeral was so somber. Only family present, nearly everyone older. It was presided over by her older brother, barely thirty, or maybe it was her brother-in-law.”
Rời nhà khi vừa tròn mười sáu, có lẽ đó là lý do cho cái sự ảm đạm nặng nề mà bao trùm lấy tang lễ. Chỉ có sự hiện diện của gia quyến, Tôi không thấy bóng dáng bạn bè em. Anh trai em là người chủ trì buổi lễ. Ổng trông chỉ vừa ba mươi, hay cũng có thể là anh rể cũng nên.
Her father, a shortish man in his mid-fifties, wore a black armband of mourning. He stood by the entrance and scarcely moved. Reminded me of a street washed clean after a downpour. On leaving, I lowered my head in silence, and he lowered his head in return, without a word.
Bố của em hơi thấp người, thoạt trông cũng độ năm nhăm. Bắp tay đeo băng đen, ông ấy đứng ngẩn người cạnh cổng. Đột nhiên ông khiến tôi nhớ đến con đường được rửa sạch sau trận mưa lớn. Khi ra về, tôi cuối đầu nín thinh, không một lời chào, ông cuối cầu đáp lễ.
“I met her in autumn nine years ago, when I was twenty and she was seventeen. There was a small coffee shop near the university where I hung out with friends. It wasn’t much of anything, but it offered certain constants: hard rock and bad coffee.”
Lần đầu tiên tôi gặp em ấy là vào 9 năm trước tại 1 quán cà phê gần trường đại học, nơi tôi hay ngồi với lũ bạn. Năm ấy tôi hai mươi, còn em tròn mười bảy. Quán cũng chẳng có gì đặc biệt, ngoại trừ vài điểu không bao giờ đổi: nhạc rock và cà phê nốc không trôi.
She’d always be sitting in the same spot, elbows planted on the table, reading. With her glasses and skinny hands, she seemed somehow endearing. Always her coffee would be cold, always her ashtray full of cigarette butts.
Em ấy luôn ngồi đúng một góc bàn quen thuộc, tay kê cằm đọc sách. Em trông đáng yêu cực với cặp kính và đôi tay mảnh khảnh của mình, dẫu cà phê của em luôn nguội lạnh, và gạt tàn đầy đầu thuốc.
The only thing that changed was the book. One time it’d be Mickey Spillane, another time Kenzaburo Oe, another time Allen Ginsberg. Didn’t matter what it was, as long as it was a book. The students who drifted in and out of the place would lend her books, and she’d read them clean through, cover to cover. Devour them, like so many ears of corn. In those days, people lent out books as a matter of course, so she never wanted for anything to read.
Thứ duy nhất thay đổi là cuốn sách trên tay em. Tôi thấy em ấy đọc sách của Mickey Spillane, Kenzaburo Oe và cả Allen Ginberg, tóm lại thì lúc nào trên tay em cũng sẽ có một cuốn sách. Mấy cô cậu học sinh ra vào quán sẽ cho em mượn sách, còn em sẽ đọc sạch không chừa trang nào. Ngấu nghiến chúng như thể là ngô vậy. Thời đó chuyện cho mượn sách không có gì là lạ cả, vì vậy có bao giờ em ấy thiếu sách đọc đâu.
Those were the days of the Doors, the Stones, the Byrds, Deep Purple, and the Moody Blues. The air was alive, even as everything seemed poised on the verge of collapse, waiting for a push
She and I would trade books, talk endlessly, drink cheap whiskey, engage in unremarkable sex. You know, the stuff of everyday. Meanwhile, the curtain was creaking down on the shambles of the sixties.
Đó là thời của the Doors, the Stones, the byrds, Deep Purple, and the moody Blues. Không khí tràn ngập sức sống, thậm chí là khi mọi thứ dường như đang “chực chờ đổ sụp”. Tôi và em ấy sẽ đổi sách với nhau, trò chuyện hằng giờ liền bên ly whiskey hạng xoàng, và “âu yếm” nhau – mấy thứ vô thưởng vô phạt, dẫu lúc đó đất nước đang cực kì hỗn loạn.
I forget her name. I could pull out the obituary, but what difference would it make now. I’ve forgotten her name. Suppose I meet up with old friends and mid-swing the conversation turns to her. No one ever remembers her name either. Say, back then there was this girl who’d sleep with anyone, you know, what’s-her-face, the name escapes me, but I slept with her lots of times, wonder what she’s doing now, be funny to run into her on the street.”
Tên em là gì tôi không còn nhớ nữa.
Tôi có thể lục xem trên tờ cáo phó, nhưng giờ thì còn ý nghĩa chi đâu. Tôi đã quên tên em rồi. Giả sử gặp lại đám bạn cũ mà có nhắc tới em ấy thì cũng chẳng ai từng nhớ tên của em cả. Đám tụi nó chỉ nhớ đến một cô gái sẽ ngủ với bất kì ai, mà không ai nhớ mặt hoặc tên. Có thể tụi nó sẽ tò mò em ấy đang sống như nào, và bông đùa với ý nghĩ gặp lại em trên đường.
“Back then, there was this girl who’d sleep with anyone.” That’s her name.”
“Lúc đó, có 1 cô gái sẽ ngủ với bất kì ai”. Đó là tên của em.
“Of course, strictly speaking, she didn’t sleep with just anyone. She had standards. Still, the fact of the matter is, as any cursory examination of the evidence would suffice to show, that she was quite willing to sleep with almost any guy. Once, and only once, I asked her about these standards of hers.”
Nếu nói đúng hơn thì tất nhiên em ấy không hề dễ dãi như vậy, em cũng có tiêu chuẩn riêng của mình. Dẫu vậy thì sự thật cũng không thay đổi là hầu như mọi chàng trai đều có thể đưa em ấy lên giường.
“Once, and only once, I asked her about these standards of hers. “Well, if you must know …,” she began. A pensive thirty seconds went by. “It’s not like anybody will do. Sometimes the whole idea turns me off. But you know, maybe I want to find out about a lot of different people. Or maybe that’s how my world comes together for me.” “By sleeping with someone?”
Chỉ 1 lần duy nhất tôi liều hỏi về tiêu chuẩn “bạn ngủ” của em.
“Nếu anh thực sự muốn biết thì..” Em trầm ngâm và nói tiếp “Thực ra thì không phải ai em cũng ngủ cùng. Thi thoảng em thấy chẳng hứng thú xíu nào, nhưng mà có lẽ em muốn biết hơn về con người. Cũng có thể đó là cách em chắp vá thế giới của mình”. ”Bằng cách ngủ với người khác?”
“Uh-huh.” It was my turn to think things over.”
“So tell me, has it helped you make sense of things?” “A little,” she said.
“uh-huh” Tới lượt tôi ngồi trầm tư.
”Vậy nói anh nghe, nó đã giúp em hiểu được gì chưa?”
“Một chút”, em đáp.
From the winter through the summer I hardly saw her. The university was blockaded and shut down on several occasions, and in any case, I was going through some personal problems of my own.
Đông rồi đến hạ tôi chẳng thấy bóng dáng em đâu cả. Trường chúng tôi bị phong tỏa và đóng cửa vài lần, và dù sao đi nữa thì lúc đó tôi cũng đang chật vật với chính vấn đề cá nhân của mình.
“When I visited the coffee shop again the next autumn, the clientele had completely changed, and she was the only face I recognized. Hard rock was playing as before, but the excitement in the air had vanished. Only she and the bad coffee were the same.
Khi tôi ghé lại quán cà phê cũ mùa thu năm sau, chỉ còn em là gương mặt quen duy nhất ở đó. Loa vẫn phát nhạc rock, nhưng bầu không khí đã mất đi sự hồ khởi thuở xưa. Chỉ có em không đổi, và cà phê vẫn tệ như xưa.
Most of the guys had dropped out, one had committed suicide, one had buried his tracks. Talk like that. “What’ve you been up to this past year?” she asked me. “Different things,” I said. “Wiser for it?” “A little.” That night, I slept with her for the first time.
Chúng tôi nói về chuyện hầu hết sinh viên đều đã nghỉ học, 1 người tự tử, còn 1 người mất tích. Em ấy hỏi: “Năm qua anh đã làm gì thế?” ”lung tung thứ ấy” – tôi đáp ”Chắc cũng trưởng thành hơn rồi nhỉ?” ”Một chút thôi” Đêm đó, lần đầu tiên, tôi ngủ với em ấy.
About her background I know almost nothing. Her first year of high school she had a big falling out with her father and flew the coop (and high school too). I’m pretty sure that’s the story. Exactly where she lived, what she did to get by, nobody knew.
Tôi không biết gì về lai lịch của em ấy. Năm lớp 10 em ấy có trận cãi to với bố em và bỏ nhà ra đi (Và nghỉ học luôn). Tôi tin rằng câu chuyện này là thật. Nhưng không một ai biết nhà của em ấy, và em ấy làm gì để sống.
“She would sit in some rock-music café all day long, drink cup after cup of coffee, chain-smoke, and leaf through books, waiting for someone to come along to foot her coffee and cigarette bills (no mean sum for us types in those days), then typically end up sleeping with the guy.”
Em ấy hay ngồi “cắm rễ” ở mấy quán cà phê nhạc rock, cà phê hết cốc này đến cốc khác, thuốc hết điếu này tới điếu kia. Chìm đắm vào những trang sách, rồi em đợi ai đó đến trả tiền thuốc và cà phê cho em (số tiền không nhỏ tẹo nào cho sinh viên tụi tôi), và cuối cùng em thường sẽ ngủ với gã đó.
There. That’s everything I know about her.
Đó là tất cả những gì tôi biết về em.
From the autumn of that year on into the spring of the next, once a week on Tuesday nights, she’d drop in at my apartment outside Mitaka. She’d put away whatever simple dinner I cooked, fill my ashtrays, and have sex with me with the radio tuned full blast to an FEN rock program. Waking up Wednesday mornings, we’d go for a walk through the woods to the ICU campus and have lunch in the dining hall. In the afternoon, we’d have a weak cup of coffee in the student lounge, and if the weather was good, we’d stretch out on the grass and gaze up at the sky.
Từ thu năm đó sang xuân năm tới, mỗi tối thứ ba hàng tuần, em sẽ ghé qua căn hộ ngoài Mitaka của tôi. Em sẽ ăn sạch mấy món đơn giản tôi nấu, đầu thuốc của em sẽ lấp đầy gạc tàn, và khi nhạc rock từ chiếc radio lấp đầy căn phòng nhỏ, chúng tôi sẽ ngủ với nhau. Sáng hôm sau tụi tôi sẽ rảo bước qua cánh rừng để tới trường, rồi cùng ăn trưa ở phòng ăn. Khi chiều buông, chúng tôi nhấm nháp cốc cà phê chả ngon lành mấy ở sảnh sinh viên, và hôm nào đẹp trời, chúng tôi sẽ cùng ngã lưng trên bãi cỏ và lặng mình nhìn ngắm trời mây.
Our Wednesday afternoon picnic, she called it. “Everytime we come here, I feel like we’re on a picnic.” “Really? A picnic?” “Well, the grounds go on and on, everyone looks so happy …” She sat up and fumbled through a few matches before lighting a cigarette.
Em gọi đó là buổi dã ngoại chiều thứ tư của tụi tôi.
“Mỗi lần tới đây, cảm giác như chúng mình đang đi dã ngoại ý”
“Gì cơ? dã ngoại á”
“uhm thì, xung quanh mặt đất bao la, không khí tràn ngập hạnh phúc còn gì”
Rồi em ngồi dậy và lục lọi lấy vài que diêm để châm thuốc.
The sun climbs high in the sky, then starts down. People come, then go. The time breezes by. That’s like a picnic, isn’t it?
Mặt trời lơ lửng đỉnh đầu, rồi dần rơi. Người đến, rồi đi. Thời gian lơ đễnh trôi. Khác gì buổi dã ngoại đâu?
I was twenty-one at the time, about to turn twenty-two. No prospect of graduating soon, and yet no reason to quit school. Caught in the most curiously depressing circumstances. For months I’d been stuck, unable to take one step in any new direction. The world kept moving on; I alone was at a standstill. In the autumn, everything took on a desolate cast, the colors swiftly fading before my eyes. The sunlight, the smell of the grass, the faintest patter of rain, everything got on my nerves.
Tôi độ đó hai mươi mốt, sắp bước sang tuổi hai hai. Học hành thì không đâu tới đâu, nhưng cũng chả có lý do gì để nghỉ. Vô vọng chật vật trong một mớ hỗn độn đến độ trầm cảm. Tôi đã mắc kẹt trong đó nhiều tháng rồi, không thể tiến được một bước nào cả. Thế giới tiếp tục xoay tròn, còn tôi cô độc một mình đứng yên. Thu sang, khoác một màu ảm đạm lên tất cả mọi thứ, màu sắc nhanh chóng phai nhòa trước mắt tôi. Tia nắng nhạt, hương cỏ thoảng, mưa tí tách, mọi thứ đột nhiên trở nên thật chướng mắt.
How many times did I dream of catching a train at night? Always the same dream. A nightliner stuffy with cigarette smoke and toilet stink. So crowded there was hardly standing room. The seats all caked with vomit. It was all I could do to get up and leave the train at the station. But it was not a station at all. Only an open field, with not a house light anywhere. No stationmaster, no clock, no timetable, no nothing—so went the dream.
Đã bao nhiêu lần tôi mơ mình bắt chuyến tàu đêm? mọi chi tiết y hệt nhau. Một đoàn tàu nặng mùi khói thuốc, và mùi hôi từ nhà vệ sinh. Đông nghịt không có chỗ chen chân. Các bãi nôn ói phủ đầy các dãy ghế. Mọi thứ kinh tởm đến mức tôi chẳng thể đợi đến ga. Nhưng nơi tôi xuống không phải là bến tàu, nơi đó là 1 cánh đồng mênh mông, tối om không một ánh đèn. Không có trưởng ga, không đồng hồ, không có lịch trình tàu, chỉ có mình tôi ở đó – giấc mơ cứ thể lặp đi lặp lại.
“I still remember that eerie afternoon. The twenty-fifth of November. Gingko leaves brought down by heavy rains had turned the footpaths into dry riverbeds of gold. She and I were out for a walk, hands in our pockets. Not a sound to be heard except for the crunch of the leaves under our feet and the piercing cries of the birds.”
Tôi vẫn còn nhớ buổi chiều kì quái đó, chiều 25 tháng 11. Những trận mưa lớn tuốt sạch lá mấy hàng cây ở Ginko, con đường đi bộ như biến thành một lòng sông vàng úa. Tôi và em rảo bước hít khí trời thu, tay đút gọn vào túi áo. Chiều vắng lặng chỉ có tiếng lá xào xạc dưới chân chúng tôi, cùng tiếng kêu inh ỏi của lũ chim trên cành.
“Just what is it you’re brooding over?” she blurted out all of a sudden. “Nothing really,” I said. She kept walking a bit before sitting down by the side of the path and taking a drag on her cigarette. “You always have bad dreams?”
“Có điều gì khiến anh bận lòng sao?” Cô ấy đột ngột hỏi. ”Anh không”, tôi nói.
Đi thêm 1 đoạn nữa rồi cô ấy ngồi xuống bên vệ đường rồi khẽ rít 1 hơi thuốc. ”Lúc nào anh cũng mơ thấy ác mộng à?”
“I often have bad dreams. Generally, trauma about vending machines eating my change.” She laughed and put her hand on my knee, but then took it away again. “You don’t want to talk about it, do you?” “Not today. I’m having trouble talking.”
“Thi thoảng anh mơ thấy những điều không hay. Thường anh thấy mình trầm cảm vì bị máy bán hàng tự động nuốt mất tiền thừa của anh.” Cô ấy bật cười và đặt tay lên đùi tôi, nhưng sau đó rút lại.
“Anh không muốn kể cho em nghe chứ gì” ”Hôm sau nhé. Hôm nay anh chưa muốn nói”
entry: Feb 24 2023
She flicked her half-smoked cigarette to the dirt and carefully ground it out with her shoe. “You can’t bring yourself to say what you’d really like to say, isn’t that what you mean?” “I don’t know,” I said.
Em ấy khảy đầu thuốc xuống đất, chậm rãi nghiền nó dưới gót giày nhỏ em mang. “Ý anh là anh không thể diễn đạt điều mà anh thực sự muốn nói sao?”
Two birds flew off from nearby and were swallowed up into the cloudless sky. We watched them until they were out of sight. Then she began drawing indecipherable patterns in the dirt with a twig. “Sometimes I get real lonely sleeping with you.” “I’m sorry I make you feel that way,” I said.
Đôi chim gần đó vụt bay đi, dần hòa vào bầu trời không gợn mây chiều hôm ấy. Chúng tôi ngồi đưa mắt nhìn theo cho tới khi chúng biến mất. Rồi tôi ngồi ngắm em vẽ nghệch ngoạc trên đất với 1 nhánh cây.
“Nhiều lúc nằm bên anh nhưng em cảm thấy cực kì cô đơn” ”Anh xin lỗi vì đã để em thấy như vậy” tôi nói.
“It’s not your fault. It’s not like you’re thinking of some other girl when we’re having sex. What difference would that make anyway? It’s just that—” She stopped mid-sentence and slowly drew three straight lines on the ground. “Oh, I don’t know.”
“Đó không phải lỗi anh mà. Đâu phải như anh nghĩ về người khác lúc ngủ với em đâu. Mà nó cũng chả khác biệt gì, chỉ là -” Cô ấy khựng lại và đưa tay vẽ ba đường gạch trên mặt đất. “Em cũng chẳng biết đâu”
“You know, I never meant to shut you out,” I broke in after a moment. “I don’t understand what gets into me. I’m trying my damnedest to figure it out. I don’t want to blow things out of proportion, but I don’t want to pretend they’re not there. It takes time.”
“Hãy hiểu rằng anh chưa từng có ý định giấu diếm em điều gì cả” tôi thỏ thẻ sau 1 lúc suy nghĩ. “Anh không biết anh bị gì nữa. Anh vẫn đang chật vật để hiểu được nó đây. Anh không muốn làm quá mọi chuyện, nhưng anh chẳng thể giả vờ rằng anh ổn. Chỉ là anh cần thời gian.”
“How much time?”
“Who knows? Maybe a year, maybe ten.” She tossed the twig to the ground and stood up, brushing the dry bits of grass from her coat. “Ten years? C’mon, isn’t that like forever?” “Maybe,” I said.”
“Thế anh cần bao lâu?” ”Chẳng biết? có thể một, cũng có thể mười năm” Ném nhánh cây xuống đất rồi em ấy đứng dậy, gạt đi mấy ngọn cỏ khô vương trên áo em.
“Mười năm? anh đùa đấy á, anh có biết mười năm dài nhường nào không?
“Anh biết”, tôi trả lời”
“We walked through the woods to the ICU campus, sat down in the student lounge, and munched on hot dogs. It was two in the afternoon, and Yukio Mishima’s picture kept flashing on the lounge TV. The volume control was broken so we could hardly make out what was being said, but it didn’t matter to us one way or the other. A student got up on a chair and tried fooling with the volume, but eventually he gave up and wandered off”
Chúng tôi băng qua cánh rừng để đến trường ICU, ngồi ở sảnh sinh viên và nhai nhóp nhép hot dogs. Lúc đó là khoảng hai giờ chiều, Tivi ở sảnh liên tục chiếu bức hình của Yukio Mishima. Nút âm lượng bị hỏng nên chúng tôi hầu như không nghe được gì cả, nhưng dù sao thì tụi tôi cũng chả quan tâm mấy. Rồi một đứa sinh viên đứng dậy và thử sửa nút âm lượng, nhưng rồi cuối cũng cũng bó tay và bỏ đi.
“I want you,” I said. “Okay,” she said. So we thrust our hands back into our coat pockets and slowly walked back to the apartment.”
“Anh cần em”, tôi mở lời.
“Ừ”, em đáp.
Thế rồi tụi tôi đút tay lại vào túi áo khoác, chậm rãi đi về căn hộ của tôi.
“I woke up to find her sobbing softly, her slender body trembling under the covers. I turned on the heater and checked the clock. Two in the morning. A startlingly white moon shone in the middle of the sky. I waited for her to stop crying before putting the kettle on for tea. One teabag for the both of us. No sugar, no lemon, just plain hot tea. Then lighting up two cigarettes, I handed one to her. She inhaled and spat out the smoke, three times in rapid succession, before she broke down coughing.”
Tôi choàng tỉnh bởi tiếng khóc nghẹn của em, cơ thể thanh mảnh ấy rung theo từng nhịp khóc dưới chăn. Tôi mở máy sưởi và nhìn đồng hồ. Hai giờ sáng. Trăng đêm đó sáng một cách lạ kì.
Tôi đợi em ngưng khóc rồi dậy bắt âm nước pha trà. Một gói trà cho hai đứa tôi. Không đường không chanh, trà “chay” thế thôi. Rồi tôi châm hai điếu thuốc, một điếu đưa cho em. Em rít rồi nhả ba gợn khói ngắn liên tục trước khi em sặc thuốc.
“Tell me, have you ever thought of killing me?” she asked. “You?” “Yeah.” “Why’re you asking me such a thing?” Her cigarette still at her lips, she rubbed her eyelid with her fingertip. “No special reason.” “No, never,” I said.”
“nói em nghe đi, đã bao giờ anh nghĩ tới việc giết em chưa?” Em hỏi.
“GIết em?”
“Ừ”
“Sao em lại hỏi 1 điều kì quái như vậy”
Điếu thuốc vẫn trên môi, em vụng về dụi mắt.
“Chả vì lý do gì cả” ”Không, anh chưa từng nghĩ đến việc đó”, tôi nói.
“Honest?” “Honest. Why would I want to kill you?” “Oh, I guess you’re right,” she said. “I thought for a second there that maybe it wouldn’t be so bad to get murdered by someone. Like when I’m sound asleep.” “I’m afraid I’m not the killer type.” “Oh?” “As far as I know.” She laughed. She put her cigarette out, drank down the rest of her tea, then lit up again. “I’m going to live to be twenty-five,” she said, “then die.” ”
“July, eight years later, she was dead at twenty-six.” ”Thật chứ?”
“Thật. Sao anh lại muốn giết em chứ?”
“oh, em nghĩ không có thật”, cô ấy trả lời. “Em chợt nghĩ sẽ không quá tệ nếu ai đó giết em. Khi em đang yên giấc.”
“E là anh không thể làm được điều đó”
“oh”
“ít nhất cho tới lúc này” Em cười. Em dập điếu thuốc, nốc hết li trà, rồi lại châm thuốc. ”Em sẽ sống đến năm hai lăm, rồi chết”, em nói.
”Tháng bảy, tám năm sau, em ra đi ở tuổi 26”

Sixteen Steps
Mười sáu bước.
“I waited for the compressed-air hiss of the elevator doors shutting behind me before closing my eyes. Then, gathering up the pieces of my mind, I started off on the sixteen steps down the hall to my apartment door. Eyes closed, exactly sixteen steps. No more, no less. My head blank from the whiskey, my mouth reeking from cigarettes.
Tôi nhắm mắt sau tiếng xì khí nén của cửa tháng máy đóng sau lưng. Định thần, rồi sau đó bắt đầu 16 bước qua sảnh đến cửa căn hộ mình. Không cần nhìn, mười sáu bước chân không hơn không kém. Đầu tôi bây giờ đầy rượu whiskey, hơi thở tôi nồng nặc mùi thuốc.
Drunk as I get, I can walk those sixteen steps straight as a ruled line. The fruit of many years of pointless self-discipline. Whenever drunk, I’d throw back my shoulders, straighten my spine, hold my head up, and draw a deep lungful of the cool morning air in the concrete hallway. Then I’d close my eyes and walk sixteen steps straight through the whiskey fog.”
Dù có say thì tôi cũng có thể bước mười sáu bước đều tắp. Thành quả của nhiều năm quy củ vô nghĩa. Mỗi khi say, tôi đều sẽ ưỡng ngực, thẳng lưng, ngẩng cao đầu và hít một hơi thật sâu không khí trong lành buổi sáng trong sảnh bê tông. Rồi tôi nhắm và bước mười sáu bước đều tắp trong cơn say whiskey.
“Within the bounds of that sixteen-step world, I bear the title of “Most Courteous of Drunks.” A simple achievement. One has only to accept the fact of being drunk at face value. No ifs, ands, or buts. Only the statement “I am drunk,” plain and simple. That’s all it takes for me to become the Most Courteous Drunk. The Earliest to Rise, the Last Boxcar over the Bridge.”
Trong khoảnh khắc đó, tôi tự phong cho mình danh hiệu “tên say rượu nhã nhặn nhất”. Một thành tựu nhỏ nhoi. Chúng ta chỉ cần phải chấp nhận việc ta say về hình thức. Không nếu, không và cũng không nhưng gì cả. Chỉ một câu đơn giản là “tôi say rồi” Đó là tất cả chúng ta cần để trở thành kẻ say rượu nhã nhặn nhất. Nhập tiệc sớm nhất nhưng rời bạn muộn nhất.
“Five, six, seven, … Stopping on the eighth step, I opened my eyes and took a deep breath. A slight humming in my ears. Like a sea breeze whistling through a rusty wire screen. Come to think of it, when was the last time I was at the beach? Let’s see. July 24, 6:30 A.M. Ideal time of year for the beach, ideal time of day. The beach still unspoiled by people. The beach, hmm …”
”năm, sáu, bảy,..
Khựng lại ở bước thứ tám, tôi mở mắt và hít 1 hơi thật sâu. Một tiếng ngân thoáng qua bên tai tôi. Như ngọn gió biển khẽ luồn qua một màn lưới thép gỉ. Nghĩ lại thì lần cuối tôi đi biển là khi nào? Để nhớ xem. Bây giờ là 6:30 sáng ngày 24 tháng 7. Khoảng thời gian hoàn hảo để đi biển, khoảng thời gian hoàn hảo nhất trong ngày. Bãi biển dịu êm vắng bóng người. Bãi biển sao, hmm..”
I began walking again. Forget the beach. All that’s ages past.
Tôi bắt đầu bước tiếp. Quên bãi biển đi thôi. Quên cả những ký ức xưa cũ.
On the sixteenth step, I halted, opened my eyes, and found myself planted square in front of my doorknob, as always. Taking two days’ worth of newspapers and two envelopes from the mailbox, I tucked the lot under my arm. Then I fished my keys out of the recesses of my pocket and leaned forward, forehead against the icy iron door. From somewhere behind my ears, a click. Me, a wad of cotton soaked through with alcohol. With only a modicum of control of my senses. Just great.
Ở bước thứ 16, tôi ngưng bước, mở mắt ra và tôi đã đứng ngay trước tay nắm cửa căn hộ mình, vẫn như mọi khi. Lấy đống báo và phong thư của 2 ngày ra khỏi hòm thư, tôi kẹp chúng dưới nách mình. Rồi tôi mò mẫu tìm chìa khóa nằm sâu trong túi tôi và ngã người tới trước, tựa trán vào cánh cửa sắt lạnh ngắn. Một tiếng click vang lên bên tay tôi. Tôi như thể là một miếng dẻ thấm đẫm rượu. Chỉ còn 1 tẹo minh mẫn mà thôi. Tuyệt.
The door maybe one-third open, I slid my body in, shutting the door behind me. The entryway was dead silent. More silent than it ought to be. That’s when I noticed the red pumps at my feet. Red pumps I’ve seen before. Parked in between my mud-caked tennis shoes and a pair of cheap beach sandals, like some out-of-season Christmas present. A silence hovered about them.
Cửa mở hé khoảng 1 phần 3 thì tôi luồn người vào, tay kéo dập cửa lại. Lối vào yên như tờ. Yên lặng một cách đáng sợ.
Tôi bỗng nhận ra dưới chân tôi có đôi cao guốc đỏ mà tôi đã thấy trước đó. Nằm giữa đôi giày tennis đầy bùn của tôi và một đôi dép lê đi biển, trông như 1 món quà giáng sinh trái mùa. Một sự yên lặng bao trùm lấy nó.
She was slumped over the kitchen table, forehead on her arms, profile hidden by straight black hair. A patch of untanned white neckline showed between the strands of hair, through the open sleeve of her print dress—one I’d never seen before—a glimpse of a brassiere strap.
Cô ấy ngồi gục trên bàn nhà bếp, trán tựa lên tay, mái tóc đen dài phủ lấy mặt cô ấy. 1 phần đường viền cổ trắng lộ ra giữa các sợ tóc, qua phần trống của chiếc váy hoa của cổ – tôi thoáng thấy dây quai áo ngực, cái tôi chưa thấy bao giờ trước đó.
“I removed my jacket, undid my black tie, took off my watch, with not a flinch from her the whole while. Looking at her back called up memories. Memories of times before I’d met her. “Well then,” I spoke up in a voice not quite my own, the sound piped in. As expected, there was no reply. She could have been asleep, could have been crying, could have been dead. I sat down opposite her and rubbed my eyes. A short ray of sunlight divided the table, me in light, her in shadow. Colorless shadow. A withered potted geranium sat on the table. Outside, someone was watering down the street. Splash on the pavement, smell of wet asphalt. “Want some coffee?”
“No reply.
“Tôi cởi áo khoác, tháo chiếc cà vạt đen, cởi đồng hồ, nhưng không có động tĩnh gì từ phía cô ấy. Kỉ niệm xưa ùa về khi tôi nhìn cổ, cả những ký ức trước khi tôi biết cô.
“Em này”, tôi nói với giọng khá kì quặc, như thể cổ họng tôi nghẹt lại.
Không phản hồi, đúng như tôi đoán. Có thể cô ấy đang ngủ, cũng có thể đang khóc, cũng có thể đã ngưng thở.
Ngồi xuống bên kia bàn, tôi loay hoay dụi mắt. Một vệt nắng khẽ cắt qua mặt bàn, tôi bên sáng, em bên tối. Thoáng bóng hình vô sắc. Trên bàn, cây thiên trúc héo úa ngã gục. Bên ngoài, trời trút mưa xối xả. Tưới đẫm vệ đường, hắt lên mùi bê tông nhựa. ”Cà phê không?”
Chỉ có tiếng lặng thinh.
So I got up and went over to grind coffee for two cups. It occurred to me after I ground the coffee that what I really wanted was ice tea. I’m forever realizing things too late. The transistor radio played a succession of innocuous pop songs. A perfect morning sound track. The world had barely changed in ten years. Only the singers and song titles. And my age. The water came to a boil. I shut off the gas, let the water cool thirty seconds, poured it over the coffee. “Been here since last night?” I asked, kettle in hand. An ever so slight nod of her head. “You’ve been waiting all this time?” No answer.”
Rồi tôi đứng dậy và đi nghiền cà phê đủ cho 2 cốc. Chỉ khi nghiền xong thì tôi mới nhận ra là tôi thực sự muốn một ly trà đá hơn. Tôi là kẻ luôn nhận ra mọi thứ muộn màng như vậy đấy.
Du dương bên tai mấy bản nhạc pop từ chiếc radio nhỏ. Thật hợp để nghe lúc mặt trời dần lên. Thế giới chẳng thay đổi mấy trong 10 năm qua, chỉ có ca sĩ và tên bài hát khác đi. Và số tuổi của tôi nữa.
Tiếng nước sôi cắt ngang dòng suy nghĩ tôi. Tắt bếp, tôi đợi khoảng 30 giây để nước nguội rồi đổ nó vào ly cà phê. ”Em đã ở đây từ đêm qua à?” Tôi hỏi, tay cầm ấm nước. Cô ấy đáp bằng 1 cãi gật đầu khẽ. ”Đợi anh cả đêm qua sao?”
Không phản hồi.
“The room had steamed up from the boiling water and strong sun. I shut the window and switched on the air conditioner, then set the two mugs of coffee on the table. “Drink,” I said, reclaiming my own voice.”
“Silence. “Be better if you drank something.”
Căn phòng dần tăng nhiệt từ ấm nước sôi và ánh nắng gay gắt tràn vào từ bên ngoài. Tôi đóng cửa sổ và mở điều hòa, sau đó đặt hai cốc cà phê lên bàn. ”Làm một ngụm đi”, tôi nói, giọng của tôi đã trở lại.
Lặng thinh.
“Uống một ít đi, em sẽ thấy tốt hơn đấy.”
“It was thirty seconds before she raised her head slowly, evenly, and gazed absently at the potted plant. A few fine strands of hair lay plastered against her dampened cheeks, an aura of wetness about her.”
Phải đến ba mươi giây sau cô ấy mới chầm chậm ngẩng đầu lên, ánh mắt vô hồn chăm chăm vào chậu cây. Một vài sợi tóc ướt nước mắt khô lại trên hai gò má, một vẻ yếu đuối toát ra từ em.
“Don’t mind me,” she said. “I didn’t mean to cry.” I held out a box of tissues to her. She quietly blew her nose, then brushed the hair from her cheek.”
“Đừng để tâm tới em”, cô ấy nói. “Em không định khóc đâu” Tôi đưa hộp khăn giấy tới cổ. Lặng lẽ hỉ mũi, rồi cô ấy gạt mấy sợi tóc khỏi hai má mình.
“Actually, I planned on being gone by the time you returned. I didn’t want to see you.” “But you changed your mind, I see.” “Not at all. I didn’t have anywhere else I wanted to go. But I’m going now, don’t worry.” “Well, have some coffee anyway.”
“Thực ra em định đi trước khi anh về. Em không muốn thấy anh.”
“Nhưng rồi em đổi ý.”
“Không hề. Em chỉ không còn nơi nào muốn đi thôi. Nhưng đừng lo, em đi ngay đây. ”Thì em uống cà phê rồi hẵng đi”
“I tuned in to the radio traffic report as I sipped my coffee and slit open the two pieces of mail. One was an announcement from a furniture store where everything was twenty percent off. The second was a letter from someone I didn’t want to think about, much less read a letter from. I crumpled them up and tossed them into the wastebasket, then nibbled on leftover cheese crackers. She cupped her hands around the coffee cup as if to warm herself and fixed her eyes on me, her lip lightly riding the rim of the mug.”
“Tôi nghe bản tin giao thông trên radio và nhâm nhi tách cà phê của mình và mở hai tờ thư. Một tờ là thông báo khuyến mãi hai mươi phần trăm của một cửa hàng nội thật, tờ kia là một là thứ từ một người tôi không muốn nghĩ tới, nên chẳng hề muốn đọc. Tôi vo chúng lại và ném vào sọt rác, rồi gặm bánh quy giòn phô mai còn xót lại. Cô ấy đặt tay lên ly cà phê như thể để hơi ấm cà phê sưởi ấm người mình và nhìn chăm chăm vào tôi, môi nhẹ nhàng lần theo miệng cốc.
“There’s salad in the fridge,” she said. “Salad?” “Tomatoes and string beans. There wasn’t anything else. The cucumbers had gone bad, so I threw them out.” “Oh.”
“Trong tủ lạnh có sald ấy” Cô ấy nói. ”Salad?” ”Khoai tây và đậu cô ve nữa. Chỉ có từng đó thôi. Dưa thối nên em vứt hết rồi.”
“I went to the refrigerator and took out the blue Okinawa glass salad bowl and sprinkled on the last drops from the bottle of dressing. The tomatoes and string beans were but chilled shadows. Tasteless shadows. Nor was there any taste to the coffee or crackers. Maybe because of the morning sun? The light of morning decomposes everything. I gave up on the coffee midway, dug a bent cigarette out of my pocket, and lit up with matches that I’d never seen before. The tip of the cigarette crackled dryly as its lavender smoke formed a tracery in the morning light.”
Tôi mở tủ lạnh và lấy ra bát salad thủy tinh Okinawa xanh và rưới những giọt sốt salad cuối cùng lên nó. Khoai tây và cả đậu ve đều mất vị hết cả. Những cái vỏ vô vị. Cốc cà phê và bánh qui cũng chẳng khác gì. Không lẽ vì nắng sáng à? Nó “lột trần” hết tất thảy mọi thứ. Tôi bỏ dỡ nửa cốc cà phê, rút một điếu thuốc gãy cong từ túi áo, và đốt nó với những que diêm tôi chưa nhớ đã thấy bao giờ. Đầu thuốc răng rắc, làn khói mùi oải hương tụ thành một lớp màn mỏng quyện vào màn nắng.
“I went to a funeral. When it was over, I went to Shinjuku, by myself.” The cat appeared out of nowhere, yawned at length, then sprang into her lap. She scratched him behind the ears. “You don’t need to explain anything to me,” she said. “I’m out of the picture already.” “I’m not explaining. I’m just making conversation.”
“Anh đã đi đến đám tang. Sau đó anh tới Shinjuku, một mình.” Cô mèo không biết từ đâu ra, trường ngáp một hơi dài rồi phóc lên đùi cô ấy. Cổ gãi nó từ phía sau tai.
“Anh không cần phải giải thích gì với em cả.” Cô ấy nói. “Em không còn liên quan gì tới anh nữa rồi”. ”Không phải anh đang giải thích. Anh chỉ muốn nói chuyện thôi.”
“She shrugged and pushed her brassiere strap back inside her dress. Her face had no expression, like a photograph of a sunken city on the ocean floor.”
Cô ấy khẩy vai và đẩy dây áo ngực vào trong váy. khuôn mặt lạnh đăm như bức ảnh của một thành phố chìm sâu dưới đáy đại dương.
“An acquaintance of sorts from years back. No one you knew.” “Oh really?” The cat gave his legs a good stretch, topped it off with a puff of a breath. I glanced at the burning tip of the cigarette in my mouth. “How did this acquaintance die?” “Hit by a truck. Thirteen bones fractured.” “Female?” “Uh-huh.”
“Người quen của anh từ thở xa xưa. Em không biết người này đâu.” ”Thế à?” Cô mèo trường dài, thở một hơi dài. Tôi ngó qua đầu tiên đang cháy trên miệng mình. ”Người quen này của anh mất như nào vậy?” ”Bị xe tải tông. Gãy 13 xương.” ”Phụ nữ à?” ”Uh-huh”
“The seven o’clock news and traffic report came to an end, and light rock returned to the airwaves. She set her coffee back down and looked me in the face.”
“Tell me, if I died, would you go out drinking like that?” “The funeral had nothing to do with my drinking. Only the first one or two rounds, if that.” A new day was beginning. Another hot one. A cluster of skyscrapers glared through the window. “How about something cool to drink?”
Bản tin thời sự bảy giờ sáng và bản tin giao thông kết thúc, nhạc rock nhẹ giờ đã chuyển sang sóng phát thanh. Cô ấy đặt ly cà phê xuống và nhìn thẳng vào mặt tôi.
“Nói em nghe, nếu em chết, anh sẽ có xay xỉn như này không?
“Đám tang không liên quan đến việc anh uống. Chỉ một, hay ly đầu thôi.”
Ngày mới đang dần tới. Lại một ngày nắng nóng. Dãy nhà cao tầng lập lò qua ô cửa sổ.
“Uống gì đó mát mát không?”
“She shook her head. I got a can of cola out of the refrigerator and downed it in one go. “She was the kind of girl who’d sleep with anyone.” What an obituary: the deceased was the kind of girl who would sleep with anyone. “Why are you telling me this?”
Cô ấy lắc đầu. Tôi lấy lon cola từ tủ lạnh và nốc hết trong một hơi. ”Cô ấy là kiểu con gái sẽ ngủ với bất kì ai.” Câu này viết cáo phó sẽ hay lắm đấy: Người đã mất là kiểu con gái sẽ ngủ với bất kì ai. ”Sao anh lại nói điều này với em?”
“Why indeed? I had no idea. “Very well,” she picked up where I trailed off, “she was the kind of girl who’d sleep with anyone, right?” “Right.” “But not with you, right?” There was an edge to her voice. I glanced up from the salad bowl. “You think not?” “Somehow, no,” she said quietly. “You, you’re not the type.” “What type?”
“Tại vì sao nhỉ?” Tôi cũng không biết
“Được thôi”, Cô ấy nói vào khoảng không tôi bày ra, “Cô ấy là kiểu người sẽ ngủ với bất kì ai, đúng chứ?” ”Đúng vậy” ”Nhưng trừ anh ra à?”
Giọng cô ấy tỏ vẻ khó chịu. Tôi đánh mắt khỏi bát salad và ngẩng nhìn cô ấy.
“Em nghĩ cô ấy sẽ không à?” ”Bằng cách nào đó, em nghĩ vậy”. cô ấy hạ giọng. “Anh, hẳn anh không phải gu cổ.” ”Anh thì sao?”
“I don’t know, there’s something about you. Say there’s an hourglass: the sand’s about to run out. Someone like you can always be counted on to turn the thing over.” “That so?” She pursed her lips, then relaxed.”
“Chả biết, có gì đó ở anh. Kiểu như có một đồng hồ cát và cát đã sắp chảy hết. Anh là người em tin có thể đảo ngược chiếc đồng hồ lại.” ”Là vậy à?” Cô ấy bím môi, rồi thư giãn trở lại.
Entry #n: Bring a raincoat. https://www.youtube.com/watch?v=J4zrIbX1ROI&ab_channel=SOULIESTUDIOS
“I came to get the rest of my things. My winter coat, hats, things I left behind. I packed them up in boxes. When you have time, could you take them to the parcel service?” “I can drop them by.” She shook her head. “That’s all right. I don’t want you to come. You understand, don’t you?” Of course I did. I talk too much, without thinking. “You have the address?” “Yes.” “That’s all that’s left to do. Sorry for staying so long.”
“Em đến lấy nốt đồ đạc của em. Áo lạnh, mũ, mấy thứ em để lại. Em đóng tụi nó vào thùng cả rồi. Khi nào anh rảnh mang đi gửi giúp em được không?” ”Để anh mang qua nhà em luôn cho.” Cô ấy lắc đầu. “Không cần đầu. Em không muốn anh tới. Anh hiểu mà?” Tất nhiên tôi hiểu điều này. Tôi vạ miệng rồi.
“Anh có địa chỉ rồi chứ?” ”Anh có”.
“Chỉ vậy thôi. Xin lỗi vì em nán lại hơi lâu”
“And the paperwork, was that it?” “Uh-huh. All done.” “I can’t believe it’s that easy. I thought there’d be a lot more to it.” “People who don’t know anything about it all think so, but it really is simple. Once it’s over and done with.” Saying that, she went back to scratching the cat’s head. “Get divorced twice, and you’re a veteran.” ”Và cả giấy tờ li hôn nữa phải không?”
“Uh-huh. Xon cả rồi.” ”Anh không nghĩ nó đơn giản đến vậy. Tưởng đâu sẽ phức tạp hơn nhiều” ”Ai chưa từng có kinh nghiệm đều nghĩ vậy cả, nhưng thực ra li hôn đơn giản lắm. Một khi tình yêu không còn nữa.” Nói xong, cô ấy trở lại gãi đầu cô mèo. “Li hôn 2 lần thì sẽ đầy kinh nghiệm”
“The cat did a back stretch, eyes closed, then quickly nestled his head into the crook of her arm. I tossed the coffee mugs and salad bowl into the sink, then swept up the cracker crumbs with a bill. My eyes were throbbing from the glare of the sun. “I made out a list of details. Where papers are filed, trash days, things like that. Anything you can’t figure out, give me a call.” “Thanks.” “Had you wanted children?” she suddenly asked. “Nah, can’t say I ever wanted kids.” ”Mắt nhắm tịt, cô mèo duỗi mình rồi nhanh chóng rút vào tay của cô ấy. Tôi vứt hai cốc cà phê và bát salad vào bồn nước, rồi phủi vụn bánh quy trên bàn bằng tờ hóa đơn. Hai mắt nhứt lên vì chói nắng.
“Em đã viết ra giấy những điều cần làm. giấy tờ được cất ở đâu, ngày vứt rác, và mấy thứ tương tự. Không biết gì thì gọi cho em.” ”Cảm ơn em.”
“Có bao giờ anh muốn có con chưa?” Tự dưng cô ấy hỏi.
“Không, anh chưa từng muốn có con.”
“I wondered about that for a while there. But seeing how it ended up like this, I guess it was just as well. Or maybe if we’d had a child it wouldn’t have come to this, what do you think?” “There’re lots of couples with kids who get divorced.” “You’re probably right,” she said, toying with my lighter. “I still love you. But I guess that’s not the point now, is it? I know that well enough myself.”
“Dạo này em hay nghĩ về chuyện mình. Nhưng nhìn cách mọi chuyện dần kết thúc, em nghĩ cũng không thể làm gì được. Hoặc cũng có thể mọi chuyện đã khác nếu chúng ta có con, anh có nghĩ vậy không?
“Có rất nhiều cặp có con cũng li hôn đấy thôi.”
“Chắc vậy,” Cô ấy nói, tay nghịch chiếc bật lửa. “Em vẫn còn yêu anh. Nhưng em nghĩ điều đó quan trọng gì nữa đâu nhỉ? Em tự biết rõ được điều này.”

“Once she was gone, I downed another cola, then took a hot shower and shaved. I was down to the bottom on just about everything—soap, shampoo, shaving cream. I stepped out of the shower and dried my hair, rubbed on body lotion, cleaned my ears. Then to the kitchen to heat up the last of the coffee. Only to discover: no one sitting at the opposite side of the table. Staring at that chair where no one sat, I felt like a tiny child in a De Chirico painting, left behind all alone in a foreign country. Of course, a tiny child I was not. I decided I wouldn’t think about it and took my time with my coffee and cigarette.”
Sau khi cô ấy rời đi, tôi nốc thêm lon cola, rồi tắm nước nóng va cạo râu. Tất cả mọi thứ đều hết sạch – xà phòng, dầu gội, kem cạo râu.
Tôi bước ra và sấy tóc, thoa kem dưỡng thể, và ngoáy tai. Xong tôi lọ mọ vào bếp để hâm ít cà phê còn lại. Nhưng chỉ để nhận ra rằng đối diện bàn không còn ai ngồi đó nữa. Mắt nhìn chiếc ghế trống bên đó, tôi cảm giác như đứa trẻ bé bỏng trong bức tranh Dechirico, bị bỏ lại đơn độc ở một quốc gia xa lạ. Tất nhiên tôi chẳng còn bé bỏng gì nữa. Tôi quyết định ngừng nghĩ về điều này và từ tốn tận hưởng thuốc lá và cà phê.
“For not having slept in twenty-four hours, I felt surprisingly awake. My body was hazed to the core, but my mind kept swimming swiftly around through the convoluted waterways of my consciousness, like a restless aquatic organism.
Dù một ngày rồi chưa ngủ, tôi vẫn cảm thấy tỉnh táo một cách bất ngờ. Người tôi thì đã rệu rã nhưng đầu tôi thì vẫn lướt vùn vụt giữa các đường nước ngoằn ngoèo của tâm thức, giống như một sinh vật nước không thể nào yên.
The vacant chair in front of me made me think of an American novel I’d read a while back. After the wife walks out, the husband keeps her slip draped over the chair. It made sense, now that I thought about it. True, it wouldn’t really help things, but it beat having that dying geranium staring at me. Besides, probably even the cat would feel more comfortable having her things around.
Chiếc ghế côi đơn đối diện làm tôi nhớ tôi một cuốn tiểu thuyết Mỹ mà tôi đọc hồi lâu. Sau khi cô Vợ bước rời đi, người chồng vẫn để slip của cô ấy nằm trên ghế. Nghĩ tới mới thấy hợp lý. Đúng thật, nó sẽ chẳng thay đổi gì, nhưng tốt hơn là phải nhìn cây hoa phong lữ héo úa.
I checked the bedroom, opening all of her drawers, all empty. Only a moth-eaten scarf, three coat hangers, and a packet of mothballs. Her cosmetics, toiletries, and curlers, her toothbrush, hair dryer, assortment of pills, boots, sandals, slippers, hat boxes, accessories, handbags, shoulder bags, suitcases, purses, her ever-tidy stock of underwear, stockings, and socks, letters, everything with the least womanly scent was gone. She probably even wiped off her fingerprints. A third of the books and records was gone too—anything she’d bought herself or I’d given her.
Tôi kiểm tra phòng tắm, kéo toang hết các ngăn kéo của cô ấy, tất cả đều trống không. Chỉ có một chiếc khăn choàng mọt gặm, ba chiếc móc đồ và một gói băng phiến. Mỹ phẩm, đồ vệ sinh, lô cuốn tóc, bàn chải, máy sấy, mấy viên thuốc, giày boots, dép sandals, mấy chồng đồ lót luôn được xếp gọn, tất da, tất, thư, tất cả mọi thứ thoảng hương phụ nữ đều đã biến mất. Cô ấy thậm chí có lẽ đã xóa cả xấu vân tay của cổ. Một phần ba số sách và đĩa nhạc cũng mất dạng luôn – tất cả những thứ cô ấy mua hay do tôi tặng.
“From the photo albums, every single print of her had been peeled away. Shots of the both of us together had been cut, the parts with her neatly trimmed away, leaving my image behind. Photos of me alone or of mountains and rivers and deer and cats were left intact. Three albums rendered into a revised past. It was as if I’d been alone at birth, alone all my days, and would continue alone. A slip! She could have at least left a slip!”
Ảnh của cô ấy cũng đã bị rút khỏi album ảnh. Những tấm ảnh tụi tôi chụp chung đều bị cắt gọn những nơi mà cô ấy xuất hiện, chỉ để lại hình của tôi. Những bức hình mình tôi hay của sông, núi và nai, mèo đều nguyên vẹn. Ba cuốn album đều được biến trở về một quá khứ đã được viết lại. Như thể tôi đã luôn một mình từ lúc sinh ra, cô độc trong suốt nhưng ngày tháng ấy, và sẽ tiếp tục như vậy.
“It was her choice, and her choice was to leave not a single trace. I could either accept it or, as I imagined was her intention, I could talk myself into believing that she never existed all along. If she never existed, then neither did her slip. I doused the ashtray, thought more about her slip, then gave up and hit the sack.”
Cô ấy có quyền lựa chọn làm vậy, và cô ấy đã chọn xóa sạch mọi dấu vết của cô ấy. Tôi chỉ có thể chấp nhận nó hoặc tự lừa bản thân mình rằng cô ấy chưa bao giờ tồn tại, hẳn đây là chủ đích của cổ. Nếu cô ấy chưa bao giờ tồn tại, thì tôi cũng không thể có chiếc slip của cô ấy.
Tôi rửa gạt tàn thuốc, nghĩ thêm về slip của cô ấy, rồi đành bỏ cuộc và đi ngủ.
“A month had passed since I agreed to the divorce and she moved out. A non-month. Unfocused and unfelt, a lukewarm protoplasm of a month”
Một tháng trôi qua kể từ ngày tôi đồng ý ly hôn và cô ấy dọn đi. Một tháng trống rỗng. Ba mươi ngày vô nghĩa và vô vị.
“Nothing changed from day to day, not one thing. I woke up at seven, made toast and coffee, headed out to work, ate dinner out, had one or two drinks, went home, read in bed for an hour, turned off the lights, and slept. Saturdays and Sundays, instead of work, I was out killing time from morning on, making the rounds of movie theaters. Then I had dinner and a couple of drinks, read, and went to sleep, alone. So it went: I passed through the month the way people X out days on a calendar, one after the one.
Mỗi ngày chỉ là sự lặp lại của ngày trước. Tôi dậy lúc bảy giờ, nướng bánh mì và pha cà phê, lê thân đi làm, ăn tối ở ngoài, nốc vài li rượu, về nhà, đọc sách khoảng một tiếng, tắt đèn, và đi ngủ. Các ngày thứ bảy và chủ nhật, thay vì đi làm, tôi ra ngoài để giết thời gian từ sáng, lang thang hết rạp chiếu phim này đến rạp chiếu phim khác. Sau đó tôi ăn tối và lại uống rượu, đọc sách, và đi ngủ, một mình. Cứ như vậy: tôi tồn tại qua ba mươi ngày này như cách người ta gạch từng ngày trên lịch, ngày này đến ngày khác.
In one sense, her disappearance was due to circumstances beyond my control. What’s done is done, that sort of thing. How we got on the last four years was of no consequence. Any more than the photos peeled out of the albums.”
Nói theo một cách thì sự biến mất của cô ấy nằm ngoài sự kiểm soát của tôi. Kiểu tình cảnh mà mình chẳng thể làm gì để thay đôi. Những ngày tháng chúng tôi bên nhau trong bốn năm qua không còn nghĩa lý gì cả. Không khác gì mấy bức ảnh bị xé ra khỏi mấy album ảnh.
“Nor did it matter that she’d been sleeping with a friend of mine for a long time and one day upped and moved in with him. All this was within the realm of possibility. Such things happened often enough, so how could I think her leaving me was anything out of the ordinary? The long and the short of it was, it was up to her. “The long and short of it is, it’s up to you,” I said.”
Việc cô ấy ngủ với bạn tôi trong khoảng thời gian dài, rồi đột ngột chuyển ra cùng cậu ấy cũng chẳng quan trọng. Tất cả chuyện này đều có thể xảy ra còn gì. Thường xuyên là đằng khác, vì vậy làm sao tôi có thể nghĩ việc cô ấy rời tôi là bất thường? Tóm gọn lại thì, tùy cô ấy.
“Tóm lại thì, tùy em”, tôi nói.
“It was a Sunday afternoon, as I dawdled with a pull-ring from a beer can, that she came out with it. Said she wanted a divorce. “Either way is fine with you then?” she asked, releasing her words slowly. “No, either way is not fine with me,” I said. “I’m only saying it’s up to you.” “If you want to know the truth, I don’t want to leave you,” she said after a moment. “All right, then don’t leave me,” I said. “But I’m going nowhere staying with you.”
Đó là vào một chiều chủ nhật, lúc tôi đang nghịch nắp kép của một lon bia thì cô ấy nói ra điều đó. Rằng cô ấy muốn li hôn. ”Dù thế nào anh cũng đồng ý cả à?” Cô ấy hỏi, chậm rãi. ”Không, chẳng hướng nào ổn với anh cả”, tôi bảo. “ý của anh là tùy em.” ”Thật lòng thì, em không muốn rời xa anh”, cô ấy nói sau một khoảng lặng.
“Vậy thì đừng”, tôi trả lời. ”Nhưng ở với anh em không biết tương lai sẽ ra sao cả.”
She wouldn’t say any more, but I knew what she meant. I would be thirty in a few months; she would be twenty-six. And if you considered the vastness of the rest of our lives, the foundations we’d laid barely scraped zero. All we’d done our four years together was to eat through our savings. Mostly my fault, I guess. Probably I never should have gotten married. At least never to her.” Cô ấy chẳng nói thêm gì, nhưng tôi hiểu. Vài tháng nữa tôi sẽ qua ba mươi, cô ấy hai mươi sáu. Nếu nghĩ tới sự mênh mông của phần đời của lại của chúng tôi thì chúng tôi chưa gầy dựng nên được gì cả. Tất cả những gì chúng tôi làm trong bốn năm qua là làm tới đâu, ăn tới đó.
“In the beginning, she thought she was the one unfit for society and made me out to be the socially functioning one. In our respective roles, we got along relatively well. Yet no sooner had we thought we’d reached a lasting arrangement than something crumbled. The tiniest hint of something, but it was never to be recovered. We had been walking ever so peacefully down a long blind alley. That was our end.
Ban đầu cô ấy nghĩ cô ấy không giỏi giao tiếp xã hội và cố làm cho tôi đảm nhận vai trò này. Không vấn đề gì xảy ra khi chúng tôi đảm nhiệm các vai trò riêng biệt này. Tuy nhiên ngay khi chúng tôi nghĩ chúng tôi đã đạt được một sự sắp xếp bền lâu thì một cái gì đó vỡ vụn. Một thứ gì đó cực kì bé nhỏ, nhưng không thể nào khôi phục lại được. Chúng ta đã rảo bước an bình trong một con hẻm dài tối đen. Và đó là đường cụt chúng tôi phải đến.
To her, I was already lost. Even if she still loved me, it didn’t matter. We’d gotten too used to each other’s role. She understood it instinctively; I knew it from experience. There was no hope. So it was that she and her slip vanished forever. Some things are forgotten, some things disappear, some things die. But all in all, this was hardly what you could call a tragedy.”
Đối với cô ấy, tôi đã không còn là tôi nữa. Nên dù cô ấy còn yêu tôi hay không cũng chả nghĩa lý gì. Chúng tôi đã trở nên quá quen thuộc với vai trò của nhau. Cô ấy hiểu như bản năng; tôi hiểu từ kinh nghiệm. Mọi hi vọng đều tắt ngúm.
Vì vậy thì kết cục là cô ấy và slip của cổ biến mất mãi mãi. Một vài điều rơi vào quên lãng, vài điều biến mất, vài thứ chết đi. Nhưng tóm lại thì, cái kết của chúng tôi không thể gọi là một tấn bi kịch”